Hãy Theo Ánh Sáng
Huỳnh Thanh Nhạn
Sau trên hai mươi năm xa cách, khi lần chót tôi đi tu nghiệp về cách dạy Anh Văn Sinh Ngữ hai, tôi gặp lại một bạn học cũ của tôi khi hai đứa cùng theo học Miami University tại Oxford, tiểu bang Ohio. Lúc đó tôi đã để ý và tất cả lớp đều để ý đến thái độ của cô L., buồn, ít cởi mở, vẻ mặt lúc nào cũng như có việc gì lo nghĩ, và không bao giờ tâm sự với bất cứ ai. Chúng tôi gọi đùa L. là “The Ugly American”, nhưng thật sự cô đẹp như các thiếu nữ trong tuổi vừa hơn hai mươi và rất hiền.
Lần này khi nhìn ra tôi, L. mừng rỡ và thăm hỏi lăng xăng. Khi biết tôi đang nghiên cứu Siêu Hình và biết được các dịch vụ của Hội để giúp người, L. sáng mắt lên, tỏ vẻ rất thích thú. Được biết tôi có thì giờ rảnh để hàn huyên, L. tỏ ý muốn tâm tình với tôi. Tôi đề nghị cùng ăn trưa tại một quán nhỏ ở Bolsa. L. kể lại:
“Hè năm đó (1970), N. rời Mỹ, tôi được chấp thuận dạy Anh Văn tại trường trung học ở Cleveland, Ohio. Trường đó tọa lạc gần bờ hồ Erie. Mặt đất cách mặt nước trên năm mươi bộ. Tôi đã đứng trên bờ cái vực đó, sẵn sàng nhảy xuống để kết liễu cái niên thiếu khổ sở của tôi. Tức thì có cánh tay lực lưỡng đã đẩy lui tôi xa bờ hồ và xoay tròn tôi lại để đối diện với một linh mục già, gầy, đang bình tĩnh hỏi tôi: “Tại sao con lại muốn hủy mình?”.
Tôi chán nhất là phải tâm sự với các linh mục. Nhưng nhìn nét mặt hiều hậu của ông ta, cặp mắt sáng, lòng ưu ái, nên tôi nghĩ rằng có thể vị này sẽ để ý đến việc của tôi. Tôi thật tình kể hết ngành ngọn cho ông nghe:
Bắt đầu sau mùa thu năm 1967, tôi cảm nhận sự có mặt của một người nào đó trong phòng của tôi. Khi là một thanh niên lạ ngồi trên ghế và hỏi tôi làm gì trong phòng của anh ta. Khi thì những mẫu máy bay trên bàn lại bị ném trúng đầu tôi. Tôi có kể lại cho ba mẹ nghe thì họ không tin, mặc dù ba mẹ tôi biết rằng con trai của chủ nhà trước đã đột ngột chết trong phòng tôi đang chiếm. Mẹ tôi đề nghị tôi nên gặp vị linh mục của trường học để được giảng giải và trấn an.
Tôi đã bị ông linh mục trẻ đó mắng cho nên thân, bảo rằng vì tôi hư đốn như thế nào cho nên mới quyến ma quỷ theo bên mình. Sự giúp đỡ của ông ta là phạt cho bao nhiêu chuỗi kinh phải đọc hằng đêm, với phải hằng cầu nguyện. Các hiện tượng vẫn tiếp tục, làm tinh thần tôi trở nên vô cùng khủng hoảng. Tôi không dám kể lại cho bất cứ một ai. Tôi lại càng chắn chắn rằng chính sự xấu xa của lòng tôi đã mang tai họa đó đến. Tôi không còn cách nào hơn là thoát khỏi cái địa ngục đó bằng cách hủy thân mình, trả lại cho ác quỷ cái mạng sống mà nó đang theo dõi.
Trong lúc kể chuyện tôi đã nhìn thật rõ cái mặt của vị linh mục, của con người duy nhất chịu khó theo dõi câu chuyện mà không chế nhạo, mà không đổ lỗi cho cái xấu chất chứa trong lòng tôi. Sau cùng người mới nói:
“Cha đã là linh mục từ bao lâu nay cho nên Cha biết chắc rằng ngoài đời sống ở trái đất này, nhất định phải có một thế giới mà chúng ta không hiểu rõ. Cái vong linh đang khuấy phá con là một vong linh chưa biết được rằng mình đã chết nên nó chỉ tìm cách chiếm lại cái sở hữu của nó thôi. Con nên nhẹ nhàng khuyên nó nên đi theo ánh sáng và trong ba ngày nó sẽ đi ngay”.
Tôi gật đầu cám ơn: “Cha đã cứu con”. Nhìn lên thì ông đã đi xa về phía nhà nguyện của khu vực đó. Tôi còn nghe được tiếng nói như nói với tôi rằng: “Hãy đi về Ánh Sáng”. Tôi về nhà làm y như lời ông dạy. Quả thật, ba ngày sau đó các sự xuất hiện chấm dứt. Tôi bình tĩnh trở lại và thấy còn vui sống.
Bốn năm sau đó, tôi có dịp đến nhà nguyện đó. Trên tường phòng khách có treo ảnh của vị linh mục đã cứu tôi và cả linh hồn tôi. Cái bia dưới khuôn hình có ghi rõ: “Sinh: 1855, Chết: 1930”.
L. yên lặng, đưa tách cà phê lên môi, mắt đăm chiêu. Sau cùng L. hỏi tôi cảm nghĩ thế nào. Rồi cô ta tiếp tục không đợi tôi trả lời:
“Tôi đã thay đổi hẳn, tôi tự nhận thấy tôi để nhiều ngày giờ hơn để học hỏi, để suy nghĩ về bao nhiêu chuyện xảy ra ở tại thế gian này, tôi đã thay đổi cách nhìn đời, thay đổi cách sống. Tôi nhận ra rằng con quỷ đáng ngại nhứt là sự sợ hãi trong con người. Tôi đã học được rằng Thượng Đế của chúng ta là Thượng Đế của tình thương. Tôi vô cùng cảm phục cái từ bi của Người và nhứt là cái uy quyền vô cùng của Người mỗi khi tôi nhớ tới cái ngày mà ông tu sỹ già đã cứu vớt được hai linh hồn chỉ trong một nghĩa cử. Tôi thấy cần phải học nhiều lắm. Như Shakespear có nói: “Còn biết bao nhiêu chuyện dưới đất và trên trời không thể nghĩ bàn với các triết thuyết của con người thế gian”.
Đứng dậy ra về, L. mở bóp trao tôi một danh thiếp. Tôi bảo: “Tôi có địa chỉ của L. rồi, cả số điện thoai”. L. nói: “Đây là một nơi khác. Nơi tôi làm việc trong lúc rảnh rỗi. Chỉ là một nhóm nhỏ thôi, gồm những người có kinh nghiệm như tôi về thế giới bên kia. Chúng tôi đang cố gắng rút các kinh nghiệm để học sống như thế nào cho đúng với ý trên, đúng với lời dạy của vị tu sĩ già; “Hãy đi về với Ánh Sáng”.
Tôi nhìn vào tấm thiệp. Danh hiệu của nhóm nghiên cứu có cái tên ngộ nghĩnh: “GO TO THE LIGHT”. Đúng cái câu mà vị linh mục đã quay đầu lại nói với L. trước khi mất dạng.
Huỳnh Thanh Nhạn